Hiện nay, có nhiều loại Giấy chứng nhận về nhà đất đang được người dân sử dụng. Tên gọi của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sự thay đổi theo thời gian và được quy định cụ thể trong Luật Đất đai năm 2024. Hiện tại, một số loại Giấy chứng nhận đã ngưng cấp nhưng vẫn còn giá trị lưu hành sử dụng.
Vậy qua từng thời kỳ, tên gọi của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sự thay đổi như thế nào?
Hãy cùng Luật Trường Minh Ngọc tìm hiểu về vấn đề này như sau:
Sổ trắng
- “Sổ trắng” là những giấy tờ chứng minh về quyền sử dụng đất đã được Nhà nước công nhận từ rất lâu trước đây như:
- Giấy được cấp trước ngày 30/4/1975: Văn tự đoạn mại bất động sản, Bằng khoán điền thổ;
- Giấy được cấp sau ngày 30/4/1975 có giấy phép mua bán nhà, giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận (hoặc quyết định) của UBND cấp huyện công nhận quyền sở hữu nhà ở…
- Những giấy trắng sau thời điểm này vẫn còn nguyên giá trị pháp lý về nhà đất. Diện tích đất được ghi trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà có thể xem là chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính.
- Sổ trắng được cấp theo quy định tại Nghị định 02-CP ngày 04/01/1979 của Hội đồng Chính phủ về ban hành điều lệ thống nhất quản lý nhà cửa ở các thành phố, thị xã, thị trấn và Pháp lệnh nhà ở ngày 26/3/1991 của Hội đồng Nhà nước trong đó diện tích đất được cấp căn cứ theo hồ sơ và các giấy tờ liên quan của người sử dụng đất được UBND xã, phường, UBND huyện, thị xã xác nhận thì diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là ghi nhận hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm cấp giấy chứng nhận.
- Hiện nay, sổ trắng được dùng để chỉ một số giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 và Điều 7 Nghị định 102/2024/NĐ-CP.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” (dân gian còn gọi là Sổ đỏ hay bìa đỏ) được cấp cho các khu vực ngoài đô thị (nông thôn), được quy định tại Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ và Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục địa chính.
- “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là mẫu do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành trước năm 2009, có bìa màu đỏ, với nội dung ghi nhận quyền sử dụng đất: có thể là đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, vườn, ao, đất rừng… nên mẫu này có tên gọi là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Khái niệm về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sự thay đổi theo thời gian cụ thể:
- Theo Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất”.
- Đến năm 2013, khái niệm này có bổ sung thêm theo Khoản 16, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đai là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
- Đến năm 2024, khái niệm này được bổ sung thêm tại Khoản 21 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất theo quy định của pháp luật. Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của các luật có liên quan được thực hiện theo quy định của Luật này có giá trị pháp lý tương đương như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại Luật này.”
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
- “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở” (theo cách gọi dân gian là Sổ hồng), được quy định tại Nghị định 60-CP ngày 05/7/1994 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở tại đô thị.
- “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở” là mẫu do Bộ Xây dựng cấp. Ngoài ra, còn ủy quyền cho UBND quận, thị xã cấp sổ trong phạm vi địa bàn. Loại đất được cấp là đất ở đô thị. Thông tin ghi nhận bao gồm:
+ Ghi nhận quyền sở hữu đất ở bao gồm: số thửa, số tờ bản đồ, diện tích, loại đất, thời hạn sử dụng;
+ Ghi nhận quyền sở hữu nhà ở bao gồm: diện tích xây dựng, diện tích sử dụng chung, riêng, số tầng…
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
- Đối tượng được cấp là nhà ở trong trường hợp chủ sở hữu nhà ở không đồng thời là chủ sử dụng đất ở (trường hợp chủ sở hữu có nhà ở trên đất ở do thuê, mượn của các chủ sử dụng đất khác), cụ thể:
+ Nhà ở riêng lẻ;
+ Chung cư.
Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng
- Đối tượng được cấp là công trình xây dựng được tạo lập hợp pháp tại Việt Nam (nhưng không phải nhà ở), cụ thể:
+ Công trình xây dựng có mục đích không phải là nhà ở;
+ Công trình xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp (dùng để ở và dùng vào các mục đích khác).
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
- Sau ngày 10/12/2009, Nghị định 88/2009/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực đã quy định thống nhất “sổ đỏ” và “sổ hồng” thành một loại giấy chung đó là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành. Trường hợp người sử dụng đất có nhu cầu quy đổi có thể đổi sang sổ mới.
- Theo Khoản 2 Điều 29 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp trước ngày nghị định này có hiệu lực thi hành thì vẫn có giá trị pháp lý và được cấp đổi sang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có yêu cầu”.
Như vậy, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP đã quy định rõ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (sổ hồng), Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng được cấp trước đây vẫn có giá trị pháp lý và chỉ đổi (không phải cấp lần đầu) sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có yêu cầu (không bắt buộc).
- Theo Khoản 3 Điều 256 Luật Đất đai 2024 thì tất cả các loại Sổ về nhà đất trên đều có giá trị pháp lý và không phải đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
- Trường hợp người đã được cấp Sổ trước ngày 10/12/2009 (ngày Nghị định 88/2009/NĐ-CP có hiệu lực thi hành – Từ ngày 10/12/2009 đến nay chỉ cấp một loại Sổ duy nhất) có nhu cầu cấp đổi thì được đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
- Căn cứ Khoản 21 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 (có hiệu lực thi hành từ 01/8/2024) thì sổ đỏ, sổ hồng có tên gọi chính xác là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Nghĩa là đổi từ “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” thành “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất”.
Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2024 cũng định nghĩa:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
- Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
Dịch vụ Luật sư tư vấn và giải quyết tranh chấp đất đai của Luật Trường Minh Ngọc
>>> Xem thêm: Điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
>>> Xem thêm: Thủ tục đăng ký cấp Sổ đỏ lần đầu mới nhất năm 2024
Trên đây là những chia sẻ của Luật Trường Minh Ngọc về vấn đề “Sự thay đổi về tên gọi của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua các thời kỳ”. Bài viết chỉ mang tính tham khảo, không phải là ý kiến tư vấn để giải quyết một vụ việc cụ thể. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, vui lòng liên hệ cho chúng tôi:
Liên hệ qua Hotline:
- Hotline 1: 093 694 1658 (zalo)
- Hotline 2: 0939 593 486 (zalo)
Liên hệ qua Facebook: Luật Trường Minh Ngọc
Liên hệ trực tiếp tại văn phòng: Tầng 3, 68 – 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh
Liên hệ qua email: infotruongminhngoc@gmail.com
*Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: infotruongminhngoc@gmail.com