Hôn nhân thực tế là hôn nhân được công nhận dựa trên cơ sở thực tế là các bên nam, nữ đã và đang chung sống như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn có thẩm quyền. Vậy hôn nhân thực tế được xác định như thế nào? Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về hôn nhân thực tế ra sao?
Hãy cùng Luật Trường Minh Ngọc tìm hiểu về vấn đề này như sau:
Khái niệm hôn nhân thực tế
- Hôn nhân thực tế là trường hợp nam nữ chung sống với nhau và thỏa mãn những điều kiện theo quy định của pháp luật nhưng không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận hôn nhân hợp pháp, được giải quyết quyền, lợi ích và nghĩa vụ như hôn nhân hợp pháp.
- Hôn nhân thực tế là một thuật ngữ pháp lý để chỉ những trường hợp hai bên nam nữ chung sống trong quan hệ vợ chồng, đã được gia đình, xã hội thừa nhận nhưng chưa được đăng ký tại cơ quan hộ tịch, chưa được cấp giấy chứng nhận kết hôn.
Đặc điểm hôn nhân thực tế
Hôn nhân thực tế có các đặc điểm sau:
– Hôn nhân thực tế là việc hai người trong mối quan hệ đó được pháp luật công nhận là vợ chồng những giữa họ không có giấy đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền cấp.
– Phải có chứng cứ là hai người đã và đang chung sống như vợ chồng về mặt thực tế và thực sự coi nhau như vợ chồng.
Việc tồn tại khái niệm hôn nhân thực tế là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của đất nước trong thời kỳ trước đó.
Cách xác định hôn nhân thực tế
Không phải trường hợp nào cũng được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế mà phụ thuộc vào thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng. Cụ thể theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình thì những trường hợp hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế, quyền và nghĩa vụ được áp dụng như hôn nhân hợp pháp như sau:
- Trường hợp thứ nhất: Hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, xác lập quan hệ vợ chồng với nhau trước ngày 03/01/1987.
- Các mối quan hệ hôn nhân của hai bên nam nữ hình thành từ thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực là thời điểm pháp luật chưa thật sự đi sâu và phổ biến trong đời sống của người dân. Những mối quan hệ vợ chồng được hình thành dựa sự tự nguyện và tình cảm của hai bên, dựa trên phong tục tập quán của mỗi địa phương, và có nhiều cặp vợ chồng không trình diện với cơ quan chức năng mà chỉ sống chung với nhau mà không có giấy hôn thú. Nắm bắt được tình hình đó, nhằm bảo đảm sự ổn định về mặt nhân khẩu tại địa phương, quy định của pháp luật vẫn công nhận những cặp vợ chồng này có hôn nhân hợp pháp.
- Hôn nhân hợp pháp của những cặp vợ chồng này được tính từ thời điểm hai bên bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng ví dụ như: ngày hai bên nam nữ tổ chức đám cưới, kể từ ngày sống chung có người làm chứng của hai bên vợ chồng,...Mặc dù những thời điểm đó không thật sự rõ ràng để xác định nhưng pháp luật vẫn ghi nhận để có thể dễ dàng giải quyết khi có tranh chấp. Theo đó, mặc dù họ chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn nhưng họ vẫn được đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của vợ chồng; khi làm thủ tục ly hôn hay có tranh chấp về vấn đề gì thì vẫn được cơ quan chức năng áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.
- Trường hợp thứ hai: Hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng sau thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực đến trước ngày 01/01/2001.
- Đối với những trường hợp nam nữ sống chung với nhau kể từ sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đến trước thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, mặc dù họ có đủ điều kiện theo quy định của luật để kết hôn nhưng vẫn chưa làm thủ tục đăng ký thì bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết hôn lên cơ quan có thẩm quyền để được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Tuy nhiên trong thời điểm mà họ đăng ký kết hôn sẽ không được mặc định là thời điểm họ được xác lập mối quan hệ vợ chồng mà quan hệ của họ vẫn được công nhận kể từ ngày họ sống chung với nhau. Thời điểm họ về ở chung với nhau kể từ thời điểm họ có sự sống chung với nhau, chăm sóc giúp đỡ và cùng nhau xây dựng gia đình hay tính từ mốc thời gian tổ chức lễ cưới, về chung sống với nhau có người khác chứng kiến. Theo đó nếu sống chung với nhau trong khoảng thời gian này mặc dù Luật hôn nhân và gia đình 1986 đã có hiệu lực nhưng pháp luật vẫn cho các cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn một khoảng thời gian hợp lý để kịp thời bổ sung thủ tục này. Trong khoảng thời gian đó nếu có yêu cầu ly hôn hay giải quyết tranh chấp thì vẫn được áp dụng theo quy định pháp luật hiện hành để giải quyết. Theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì những trường hợp này phải đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian từ thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2001 đến thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2003.
- Nếu như sau thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà các cặp vợ chồng không tiến hành thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hợp pháp thì họ sẽ không được xem là vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Theo đó nếu có yêu cầu về thực hiện thủ tục ly hôn thì không áp dụng luật mà chỉ xử lý về vấn đề tranh chấp quyền nuôi con và tranh chấp phân chia tài sản.
Như vậy, chỉ có trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, xác lập quan hệ vợ chồng với nhau trước ngày 03/01/1987 thì mới được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế, đối với các trường hợp còn lại thì phải tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.
Thế nào là chung sống với nhau như vợ chồng trong “Hôn nhân thực tế”?
Căn cứ điểm d Khoản 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có quy định:
Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Điều 9, 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định về điều kiện kết hôn và những trường hợp cấm kết hôn như sau:
Điều 9. Điều kiện kết hôn
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.
Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
5. Giữa những người cùng giới tính.
Giá trị pháp lý của hôn nhân thực tế
- Trường hợp hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vẫn được pháp luật công nhận và bảo vệ như những người đã đăng ký kết hôn kể từ thời điểm họ chung sống với nhau như vợ chồng.
- Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 đã đăng ký kết hôn thì quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vẫn được pháp luật công nhận và bảo vệ như những người đã đăng ký kết hôn kể từ thời điểm họ chung sống với nhau như vợ chồng.
- Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 vẫn không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận và bảo vệ họ như vợ chồng.
- Trường hợp nam và nữ đăng ký kết hôn kể từ sau ngày 01/01/2003 thì được pháp luật công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về hôn nhân thực tế
- Hiện nay, trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không có điều luật nào quy định trực tiếp về “hôn nhân thực tế”. Tuy nhiên, không phải các nhà làm luật đã bỏ qua chế định này mà nó được thể hiện bằng một cách khác. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về điều khoản chuyển tiếp có quy định:
“Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết”.
- Lưu ý: Quy định trên là quy định về “điều khoản chuyển tiếp” hay còn gọi là “quy định hồi tố”. Đây là quy định về những trường hợp phải áp dụng pháp luật cũ hay những quan hệ pháp luật được xác lập trước thời điểm pháp luật mới có hiệu lực thì khi nào áp dụng pháp luật cũ, khi nào áp dụng pháp luật mới. Do đó, hôn nhân thực tế sẽ không được quy định trực tiếp tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 mà sẽ áp dụng quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.
Dịch vụ Luật sư hôn nhân gia đình của Luật Trường Minh Ngọc
>>> Xem thêm: Thủ tục hạn chế quyền thăm nom của cha/mẹ sau khi ly hôn
>>> Xem thêm: Chia tài sản chung khi không đăng ký kết hôn
Trên đây là những chia sẻ của Luật Trường Minh Ngọc về vấn đề “Hôn nhân thực tế và những điều cần biết”. Bài viết chỉ mang tính tham khảo, không phải là ý kiến tư vấn để giải quyết một vụ việc cụ thể. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, vui lòng liên hệ cho chúng tôi:
Liên hệ qua Hotline:
- Hotline 1: 093 694 1658 (zalo)
- Hotline 2: 0939 593 486 (zalo)
Liên hệ qua Facebook: Luật Trường Minh Ngọc - Luật sư của bạn
Liên hệ trực tiếp tại văn phòng: Tầng 3, 68 – 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh
Liên hệ qua email: infotruongminhngoc@gmail.com
*Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: infotruongminhngoc@gmail.com